Theo "Phụ lục B" của Quy định quốc tế về ngăn chặn ô nhiễm dầu (IOPP), các tanker dầu được phân làm các lọai sau:
- tanker để chở dầu thô;
- tanker để chở các sản phẩm dầu mỏ;
- tanker để chở dầu thô/các sản phẩm dầu;
- tanker để chở dung dịch bitum;
- tanker hóa chất;
- tàu đa chức năng.
Đối với mỗi loại tanker kể trên đều có các yêu cầu cụ thể về kết cấu bảo vệ các khoang hàng, thiết bị và phương pháp súc rửa khoang hàng, trình tự xả nước dằn và các hợp chất chứa dầu.
Dựa trên tải trọng và theo thông lệ chung trên thế giới thì các tanker được chia thành các loại sau: tàu tải trọng thấp - đến 5.000T; tàu tải trọng trung bình - đến 30.000T; tàu tải trọng lớn - trên 30.000T.
Tanker tải trọng lớn lại được chia thành các loại sau:
- Supertanker 30-70 ngàn tấn (ng. T);
- Mammath tanker 70-150 ng. T;
- VLCC 150 - 300 ng. T;
- ULCC 300 - 800 ng. T;
- Megartanker 1 triệu tấn.
Các tính chất nguy hiểm của hàng hóa được chuyên chở, tính độc hại mà các sản này có thể gây ra cho môi trương xung quanh, con người trong trường hợp tàu bị tai nạn có ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu trong thiết kế tanker, trang thiết bị và quá trình vận hành tàu.
Xu hướng phát triển kết cấu thân vỏ hiện nay của các tanker tải trọng trung bình và tải trọng lớn là hướng đến thiết bị thân vỏ "thân thiện môi trường" và các thiết bị bên trong có khả năng ngăn chặn ô nhiễm biển.
Kết cấu thân vỏ của tankerCác yêu cầu về an toàn cho tanker được khuyến cáo trong các quy định của Đăng kiểm, Công ước MARPOL-73/78 và SOLAS-74 và của IMO.
Cấu trúc thường áp dụng của các tàu hàng lỏng là tàu một boong với khoang máy đặt ở phía sau lái, thân vỏ được phân chia bởi các vách ngang, một, hai hay ba vách dọc.
Người ta thường áp dụng các hệ thống kết cấu sau cho thân vỏ tanker.
Các tanker có chiều dài nhỏ hơn 180m cần có:
- hệ thống kết cấu khỏe dọc đáy và boong ở khu vực các khoang hàng;
- hệ thống kết cấu khỏe ngang hoặc dọc cho mạn tàu và các vách dọc.
Các tanker có chiều dài trên 180m phải có hệ thống kết cấu dọc.
Để phòng chống cháy nổ, các khoang hàng, két tràn cần được ngăn cách với khoang máy, trạm điều khiển và khu vực phòng ở bằng các cofferdam (vách kép có khoảng trống ở giữa).
Dọc chiều dài tàu từ thượng tầng lái đến boong mũi là hệ cầu dẫn để đảm bảo việc đi lại của thủy thủy, lắp đặt đường ống, dây điện. Cầu dẫn cần có kết cấu vững chắc, có số lượng liên kết đàn hồi và liên kết trượt phù hợp để tránh hiện tượng nứt gãy cầu khi bị lắc dọc mạnh trong điều kiện sóng gió lớn.
Khu vực boong phía trên các khoang hàng không được lắp đặt mạn giả, chỉ lắp đặt lan can che chắn nhằm tránh hiện tượng tích tụ hơi hydrocacbon và tích tụ nước trong điều kiện gió bão. Mạn giả cùng các cửa mạn hở chỉ được lắp đặt ngoài khu vực các khoang hàng. Vách dọc và vách ngang phải là loại kín nước và có khả năng chịu áp lực dạng cột nước và lực quán tính do hàng lỏng gây ra (khi một khoang chứa hàng còn khoang bên cạnh thì không). Việc phân chia khu vực chở hàng thành các khoang và giới hạn về kích thước của chúng là do các yêu cầu thực tế sau đây:
- giảm diện tích mặt thoáng nhằm mục đích giảm mô-men quán tính của mặt thoáng khi tàu bị lắc. Vách dọc làm giảm lực quán tính theo phương ngang (tàu lắc ngang) và giảm sự ảnh hưởng của tải lỏng đến độ ổn định của tàu. Các vách ngang làm giảm lực quán tính theo phương dọc, làm giảm moment uốn và tăng độ bền thân tàu;
- bảo đảm tính chống chìm cho tanker;
- giảm tác động ô nhiễm biển do dầu gây ra trong trường hợp sự cố;
- giúp tanker có thể chở nhiều loại hàng trong các khoang khác nhau.
Trên các tanker hiện đại người ta thường thiết kế hai vách dọc, còn khi chiều rộng của tàu 35-50m và lớn hơn, trong nhiều trường hợp người ta lắp đặt vách thứ 3, là dạng có thể không kín nước - vách chặn. Chỉ ở các tanker nhỏ mới cho phép làm một vách dọc và thường là mặt phẳng tâm tàu. Do có nhiều vách dọc, vách ngang và không có các miệng khoét lớn trên mặt boong nên độ bền của thân vỏ tanker được tăng lên và điều này cho phép tăng mớn nước và trọng tải tối đa.
Các khoang hàng trên tanker có hai vách dọc được chia thành khoang mạn trái, khoang mạn phải và các khoang tâm tàu nằm ở giữa hai vách dọc. Kích thước và bố trí các khoang hàng phải thỏa mãn các tiêu chuẩn quốc tế.
Các khoang hàng cần bảo đảm việc bảo vệ hàng lỏng khỏi các tác động của môi trường bên ngoài và tránh tác động của các hiện tượng sau lên chất lượng hàng lỏng:
- sự di chuyển từ các hàng lỏng khác và từ nước dằn;
- nhiễm bẩn từ phần cặn của hàng đã chở trước đó;
- nhiễm bẩn do rỉ sét kết cấu;
Hiện nay ứng dụng các kiểu kết cấu sau cho các khoang hàng:
a) khoang hàng theo kiểu truyền thống với hai vách dọc;
b) có hai vách dọc và các khoang dành riêng cho balast sạch;
c) có mạn kép và không gian mạn kép dùng cho balast cách ly;
d) có hai vách dọc và đáy đôi, không gian đáy đôi và mạn kép dùng cho balast cách ly;
e) có các két phụ, két balast cách ly nằm giữa thân vỏ và thân két.
Các khoang hàng kiểu d) và e) có bề mặt phẳng vì tất cả các kết cấu nằm phía trong các kết cấu đôi. Các bề mặt phẳng cho phép bảo đảm việc sơn phủ tốt, đơn giản hóa việc súc rửa các khoang hàng, tăng tốc độ chảy của tải lỏng đến các miệng hút, giảm thời gian giao nhận hàng của tanker.
Khoang bơm: Buồng để lắp đặt các bơm hàng đặt ở phía lái so với các khoang hàng, gần với khoang máy. Khoang bơm được ngăn cách với với các khoang hàng bằng cofferdam hoặc đóng vai trò là cofferdam giữa khoang máy và các khoang hàng. Khoang bơm ngăn cách với các khoang kác bằng các vách kín khí A-60 và không được có các trang bị thông nhau ngoài các đường ống. Trong khoang bơm lắp đặt các bơm hàng, các hệ thống điều khiển các thao tác với hàng lỏng và đóng ngắt các đường ống. Ngoài ra trong khoang bơm còn lắp đặt các thiết bị, cơ cấu để súc rửa các khoang hàng như: bơm, sấy nước v.v... Khoang bơm cần có một lối thoát hiểm ngoài cửa ra vào chính.
Các két lắng: "Két lắng" (Slop tank) - là thuật ngữ chỉ một két bất kỳ dùng chuyên cho việc chứa các chất cặn từ các khoang hàng, nước rửa hoặc các hợp chất chứa dầu khác.
Theo yêu cầu của Công ước MARPOL-73/78 trên các tanker phải lắp đặt các hệ thống tốt phục vụ cho làm lắng và làm sạch nước rửa nhiễm dầu hay balast bẩn. Kích thước các két lắng của tanker có tấn đăng ký trên 150, không được nhỏ hơn 3% dung lượng hàng của tanker.
Các két balast cách ly: Theo Điều 13, Phụ lục 1 của Công ước MARPOL về găn chặn việc ô nhiễm biển trong trường hợp va chạm hoặc đâm vào đá gầm, các tanker được đóng sau ngày 01/06/1982 phải có các két balast cách ly. Yêu cầu này áp dụng đối với các tanker chở dầu thô có DWT ≥ 20.000T và các tanker chở các sản phẩm dầu mỏ có DWT ≥ 30.000T.